Tôi có phạm tội không?

Cách đây 5 tháng, tôi có quen 1 người đàn ông Malaysia khoảng 45 tuổi. Ông ta rất muốn tôi để ý và quan tâm tới ông ta nên làm mọi cách để lấy lòng tôi. Ông ta có đề nghị tôi đưa số tài khoản ngân hàng để ông chuyển tiền là 16,000 USD cho tôi. Lúc đầu tôi rất lo lắng vì chưa bao giờ có ai cho mình nhiều tiền như thế nên không nhận nhưng người đàn ông kia trấn an là ông ấy chuyển tiền để giúp đỡ cuộc sống của tôi thôi. Ông ta đã chuyển tiền qua Ngân hàng cách đây 4 tháng, bằng chứng duy nhất là giấy chuyển tiền từ ngân hàng của ông ta. Qua một thời gian tìm hiểu, do bất đồng ngôn ngữ và tính cách nên xảy ra nhiều mâu thuẫn, ông ta trở mặt, thẳng thừng đòi lại số tiền đó và dọa sẽ kiện tôi và làm cho tôi mất việc. Xin cho tôi hỏi, việc làm của tôi liệu có phạm tội hay không? Tôi không rõ liệu mình có bị người đó vu cho tội lạm dụng sự tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản hay không? Số tiền đó tôi mới lo cho cuộc sống 1 phần, tôi có nên trả phần còn lại cho ông ta không? Tôi lo sợ khả năng ông ta dùng tiềnmua chuộc công an để ép tội cho tôi. Tôi có quyền đề nghị phải có luật sư thì mới tiến hành khai báo hay không?

Dựa trên tất cả thông tin về việc chuyển khoản tiền của ông người Malaysia thì đây là Hợp đồng tặng cho tài sản (Điều 465 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận) và hợp đồng tặng cho tài sản trong tình huống này là hợp đồng tặng cho tài sản không có điều kiện. Căn cứ vào các Điều 405 và Điều 406 thì Hợp đồng tặng cho tài sản (mà cụ thể là tặng cho 16.000 USD) đã phát sinh hiệu lực từ ngày bạn đồng ý nhận tiền và tiền được chuyển vào tài sản của bên được tặng cho, từ đó phát sinh quyền sở hữu cho bên được tặng cho. Và bên được tặng cho xác lập quyền sở hữu hoàn toàn đối với khoản tiền này, bên được tặng cho không có nghĩa vụ trả lại bất kỳ cái gì cho bên tặng cho.

Căn cứ vào các quy định hợp đồng tặng cho tài sản, cũng như căn cứ vào quy định tại Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì hành vi của bạn không thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ: khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự hiện hành có quy định: Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

 a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

 b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Trong trường hợp của bạn, theo tất cả những thông tin mà bạn cung cấp thì đây là Hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng có hiệu lực làm phát sinh quyền sở hữu hoàn toàn cho bên được tặng cho, do đó bạn không có những hành vi phạm tội trên.

Tội xâm phạm sở hữu
Hỏi đáp mới nhất về Tội xâm phạm sở hữu
Hỏi đáp Pháp luật
Tội bắt cóc trẻ em để tống tiền bị phạt như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định mới nhất năm 2023?
Hỏi đáp pháp luật
Vô ý làm cháy cây xăng có phạm tội không?
Hỏi đáp pháp luật
Sử dụng điện chống trộm gây chết người
Hỏi đáp pháp luật
Đánh nhau vô tình gây chết người.
Hỏi đáp pháp luật
Bị chạn đánh, đánh lại gây chết người
Hỏi đáp pháp luật
Đi hòa giải dẫn đến chết người
Hỏi đáp pháp luật
Hành vi giăng bẫy điện chống trộm dẫn đến chết người thì bị xử tội gì?
Hỏi đáp pháp luật
Bật cầu dao điện gây chết người
Hỏi đáp pháp luật
Đi cùng nhóm bạn đánh nhau gây chết người thì xử lý như thế nào
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Tội xâm phạm sở hữu
Thư Viện Pháp Luật
163 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Tội xâm phạm sở hữu
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào