Vì kết hôn mà bị chấm dứt hợp đồng lao động có đúng không?

Từ lúc ra trường tôi đã đi làm tại công ty xuất nhập khẩu. Đến nay đã 02 năm, hiện tại tôi sắp kết hôn và công ty tôi ra quyết định sa thải tôi với lý do tôi kết hôn sẽ không đảm bảo được chất lượng công việc. Việc chấm dứt hợp đồng lao động của công ty tôi như thế có vi phạm pháp luật không? Nếu công ty chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì phải bồi thường cho tôi như thế nào? Nhờ Ban biên tập tư vấn giúp tôi!

Chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kết hôn có đúng không?

Tại Điều 137 Bộ luật Lao động 2019 bảo vệ thai sản như sau:

1. Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong trường hợp sau đây:
a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp được người lao động đồng ý.
2. Lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn hoặc giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới.
4. Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.

Vì vậy, dựa trên tình huống của bạn, công ty không được sa thải bạn với lý do kết hôn không đảm bảo được chất lượng công việc.

Vì kết hôn mà bị chấm dứt hợp đồng lao động có đúng không?

Vì kết hôn mà bị chấm dứt hợp đồng lao động có đúng không? (Hình từ Internet)

Người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải bồi thường như thế nào?

Căn cứ Điều 41 Bộ luật Lao động 2019 nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:

1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

Như vậy, tùy thuộc vào trường hợp cụ thể, người sử dụng lao động sẽ phải bồi thường tương ứng cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Trân trọng!

Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
Căn cứ pháp lý
Hỏi đáp mới nhất về Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
Hỏi đáp pháp luật
Vì kết hôn mà bị chấm dứt hợp đồng lao động có đúng không?
Hỏi đáp pháp luật
Khi có hành vi sàm sỡ đồng nghiệp có bị đuổi việc ngay không?
Hỏi đáp pháp luật
Có được chấm dứt hợp đồng khi công ty trả lương không đủ?
Hỏi đáp pháp luật
Đang nghỉ phép thì công ty có quyền chấm dứt hợp đồng hay không?
Hỏi đáp pháp luật
Nghỉ làm không phép trên 05 ngày bị chấm dứt hợp đồng ngay thì có đúng không?
Hỏi đáp pháp luật
Bị gây khó dễ khi xin thôi việc người lao động phải làm sao?
Hỏi đáp pháp luật
Có được đơn phương chấm dứt hợp đồng khi người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài không?
Hỏi đáp pháp luật
Có được đơn phương chấm dứt HĐLĐ với người vừa hết thời hạn nghỉ thai sản?
Hỏi đáp pháp luật
Có thể chấm dứt hợp đồng khi người lao động bị ốm đau liên tục trên 12 tháng?
Hỏi đáp pháp luật
Chấm dứt hợp đồng lao động với cán bộ công đoàn
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
Nguyễn Thị Kim Dung
426 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào