Ghi tên người vợ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng

Năm 1985, anh Xuyên và chị Tài kết hôn và đã tạo lập được tài sản chung là căn nhà trên thửa đất gần 100m2. Năm 1994, anh Xuyên vào thành phố Hồ Chí Minh làm ăn. Đến năm 2003, UBND xã tiến hành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình trong xã, chị Tài đã đứng ra làm đầy đủ hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá thời hạn giải quyết đã lâu nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chị Tài đến UBND xã yêu cầu trả lời. Cán bộ địa chính xã cho biết hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình chị Tài đã đầy đủ nhưng vì trong Sổ hộ khẩu ghi anh Xuyên là chủ hộ nên cần anh Xuyên đến làm thủ tục hoặc có giấy thể hiện sự đồng ý để chị Tài cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì xã mới có cơ sở để trình cấp có thẩm quyền giải quyết. Chị Tài cho rằng, cán bộ địa chính xã giải quyết không đúng nên đã tìm gặp Chủ tịch UBND xã đề nghị giải quyết.

Việc cán bộ địa chính trì hoãn xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình chị Tài vì lý do cần sự có mặt của anh Xuyên, với tư cách là chủ hộ gia đình để thể hiện sự đồng ý về việc cho chị Tài - vợ anh Xuyên cùng được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù hợp với quy định của pháp luật về quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản chung và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản chung của vợ chồng.

-    Quyền bình đẳng của vợ và chồng trong đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung

Trong trường hợp này, thông qua các giấy tờ có trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chị Tài đã nộp, cán bộ địa chính có cơ sở để khẳng định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng anh Xuyên, chị Tài. Đây là tài sản mà anh Xuyên, chị Tài đã đóng góp công sức chung để tạo lập và là tài sản hình thành sau khi anh Xuyên và chị Tài đã kết hôn.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này bắt buộc phải ghi tên của cả anh Xuyên và chị Tài.

Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau: trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.

Như vậy, yêu cầu của cán bộ địa chính về việc cần có sự đồng ý của người chồng không chỉ trái pháp luật vì đặt ra thêm thủ tục mà pháp luật đất đai không quy định, hơn nữa còn thể hiện sự không coi trọng quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản chung.

-    Về việc ghi tên chủ sử dụng đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Căn nhà và thửa đất của vợ chồng anh Xuyên, chị Tài được xác định là tài sản chung của vợ chồng, do đó, theo điểm a khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai quy định, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải ghi đầy đủ họ, tên vợ và họ, tên chồng. Điều này đã được hướng dẫn cụ thể tại điểm d khoản 2 Điều 3 bản Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Do đó, việc anh Xuyên đứng tên chủ hộ gia đình trong Sổ hộ khẩu không ảnh hưởng đến việc ghi tên cả vợ và chồng trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bởi đây không phải là trường hợp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.

Với những phân tích trên cho thấy, việc cán bộ địa chính trì hoãn xem xét hồ sơ để trình cấp có thẩm quyền giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Xuyên, chị Tài là không đúng pháp luật. Do đó, với yêu cầu của chị Tài, Chủ tịch UBND xã cần chỉ đạo cán bộ địa chính nhanh chóng thụ lý hồ sơ và giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hỏi đáp mới nhất về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hỏi đáp Pháp luật
Mẫu hợp đồng mượn nhà mới nhất 2023?
Hỏi đáp Pháp luật
Mẫu đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất 2023?
Hỏi đáp Pháp luật
Có cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phần đất hình thành từ hoạt động lấn biển không?
Hỏi đáp Pháp luật
Luật Đất đai 2024 quy định các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngày 01/01/2025?
Hỏi đáp Pháp luật
Luật Đất đai 2024: Sửa đổi quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự?
Hỏi đáp Pháp luật
Bổ sung thêm trường hợp thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai 2024?
Hỏi đáp Pháp luật
Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng sở hữu gồm có những giấy tờ gì?
Hỏi đáp Pháp luật
Điều kiện, hồ sơ, thủ tục làm sổ đỏ cho đất thừa kế theo quy định pháp luật là gì?
Hỏi đáp Pháp luật
Khi nào thì người sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không được cấp giấy chứng nhận?
Hỏi đáp Pháp luật
Một công đất bằng bao nhiêu mét vuông? Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sử dụng đơn vị công đất hay không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Thư Viện Pháp Luật
216 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào